image banner
Mường Mô tập trung làm tốt công tác bảo vệ và phát triển rừng

Trong những năm qua thực hiện các chủ trương của nhà nước về bảo vệ rừng và phát triển rừng, dưới sự chỉ đạo quyết liệt của UBND huyện Nậm Nhùn, phong trào toàn dân chung tay bảo vệ, phát triển rừng của xã Mường Mô đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Nhiều năm liền xã không để xảy ra cháy rừng, hiện tượng người dân khai thác gỗ, lâm sản giảm xuống rõ rệt. Nhận thức của người dân về rừng từng bước được nâng lên, nhân dân hiểu được giữ được rừng là giữ được nguồn nước phục vụ canh tác tưới tiêu và sinh hoạt hàng ngày. Tỷ lệ độ che phủ rừng ngày một nâng lên góp phần giúp nhân dân có một nguồn thu tương đối ổn định từ các chính sách chi trả của nhà nước.

Đến thời điểm này xã Mường Mô huyện Nậm Nhùn có trên 12 nghìn 362ha được chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng của nhà nước trong đó diện tích rừng phòng hộ có trên 3 nghìn 563ha, diện tích rừng sản xuất đạt trên 8 nghìn 799ha. Đây là một trong những địa phương có diện tích rừng lớn nhất của huyện Nậm Nhùn. Xã có 8 bản đa phần đồng bào là người dân tộc Thái. Nhiều năm trước đây do hạn chế về nhận thức cũng như chưa hiểu hết được lợi ích cũng như tác hại mà rừng đem lại cho cuộc sống của bản thân mình, gia đình mình và cộng đồng xã hội nên tình trạng người dân chặt phá rừng, đốt rừng làm nương rẫy vẫn diễn ra gây ra tình trạng rừng bị tàn phá, nguồn nước phục vụ sinh hoạt, tưới tiêu cho đồng ruộng cũng dần khan hiếm. Cùng với đó do là xã tái định cư chương trình thủy điện Lai Châu nên diện tích rừng tự nhiên của xã cũng bị ảnh hưởng không ít. Trước tình hình trên, với mục tiêu nâng cao diện tích rừng, tăng độ che phủ hạn chế tình trạng cháy rừng, các vụ vi phạm pháp luật liên quan đến rừng. Đảng bộ chính quyền xã Mường Mô đã chủ động, tích cực kết hợp với cán bộ ban quản lý dự án rừng phòng hộ huyện Nậm Nhùn, cán bộ kiểm lâm địa bàn thường xuyên xuống từng bản tập trung tuyên truyền, vận động nhân dân chung tay bảo vệ rừng, giải thích cho nhân dân hiểu tác hại của việc chặt phá rừng, đốt rừng. Nhờ vậy từ năm 2015 đến nay, trên địa bàn xã hiện tượng người dân tự ý chặt phá rừng không còn, nhân dân đã ý thức được việc bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của chính bản thân mình. Diện tích rừng của xã tăng dần theo từng năm với tỷ lệ độ che phủ rừng đạt 61,14%, nguồn nước từ đầu nguồn luôn đủ để phục vụ nhu cầu sinh hoạt cũng như sản xuất của nhân dân.

Ông Trần Anh Đôn, Chủ tịch UBND xã Mường Mô, huyện Nậm Nhùn cho biết: “Công tác tuyên truyền nâng cao ý thức quản lý, bảo vệ rừng cho người dân là rất quan trọng. Cán bộ Kiểm lâm địa bàn xã đã không ngại khó khăn, kiên trì vận động từng cán bộ đảng viên, Người có uy tín tại cơ sở để họ có tiếng nói và trách nhiệm với cộng đồng dân tộc mình. Những năm trở lại đây, nhờ có chính sách chi trả DVMTR và sự vào cuộc quyết liệt của các lực lượng chức năng, chính quyền các cấp, số vụ vi phạm lâm luật có xu hướng giảm mạnh.

anh tin bai

Một buổi tuyên truyền về công tác bảo vệ và phát triển rừng của xã Mường Mô.

Bản Tổng Pịt, xã Mường Mô là bản có diện tích rừng ít nhưng lại dễ có nguy cơ cháy rừng cao, thực hiện sự chỉ đạo của chính quyền xã, lãnh đạo bản đã thường xuyên tập trung tuyên truyền vận động nhân dân nâng cao ý thức bảo vệ, phát triển rừng, đặc biệt vào mùa khô hanh bà con nhân dân trong bản thường xuyên tiến hành phát đường băng cản lửa tại các khu vực có nguy cơ cháy cao, khi đốt nương rẫy đều phải tuân thủ đúng thời gian và kỹ thuật.

Ông Lý Văn Hom, Bí thư chi bộ bản Tổng Pịt, xã Mường Mô, huyện Nậm Nhùn chia sẻ: “ Trong những năm qua, đặc biệt là thời gian nắng nóng kéo dài chúng tôi cũng đã thường xuyên tuyên truyền nhân dân chủ động mọi biện pháp trong công tác bảo vệ rừng nhằm không để cháy rừng xảy ra.”

Là địa phương có diện tích tự nhiên tương đối lớn, người dân chủ yếu tập trung vào sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, chăn nuôi tập trung kết hợp với công tác chăm sóc phát triển rừng, nhưng do địa hình các bản của xã khá phức tạp, không tập trung, khó quản lý nên rất dễ dẫn đến tình trạng khai thác trộm lâm sản, chặt phá rừng bừa bãi. Chính vì vậy nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng bộ, chính quyền xã Mường Mô đặt ra trong những năm qua là cần tăng cường công tác bảo vệ rừng, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng cháy rừng và các hoạt động ảnh hưởng đến rừng. Đối với công tác phòng cháy chữa cháy rừng, ngay từ đầu mùa khô hàng năm xã đã chủ động thành lập ban chỉ đạo bảo vệ phát triển rừng kết hợp với cán bộ kiểm lâm địa bàn xuống cơ sở hướng dẫn nhân dân phát đường băng cản lửa, thu dọn thực bì, đồng thời cử cán bộ túc trực 24/24h khi có sự cố xảy ra kịp thời đón nhận thông tin để xử lý. Cùng với đó xã cũng tiến hành thành lập các tổ đội xung kích bảo vệ phát triển rừng tại 8/8 bản với nhiệm vụ thường xuyên tuyên truyền, vận động nhân dân có ý thức bảo vệ rừng; thường xuyên tiến hành tuần tra, kiểm soát tại những khu vực có nguy cơ gây cháy để nắm rõ tình hình. Đặc biệt vào các thời gian cao điểm, nguy cơ cháy rừng cao chính quyền xã đã huy động toàn bộ các tổ chức đoàn thể của xã lấy dân quân làm nòng cốt để túc trực và kịp thời ứng phó khi cháy rừng xảy ra. Đây cũng là lực lượng thường xuyên trong công tác tuyên truyền vận động nhân dân, người thân bạn bè cần chung tay, nâng cao ý thức bảo vệ rừng. Một trong những yếu tố quan trọng trong việc thực hiện tốt công tác bảo vệ rừng của xã Mường Mô chính là vai trò của kiểm lâm địa bàn. Bên cạnh việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, cán bộ kiểm lâm địa bàn được phân công phụ trách xã thường xuyên tham mưu cho UBND xã các vấn đề liên quan đến công tác bảo vệ và phát triển rừng, tuyên truyền cho nhân dân hiểu những lợi ích mà rừng mang lại cho cuộc sống của con người nếu biết bảo vệ.

anh tin bai

Cán bộ Kiểm lâm địa bàn xã Mường Mô hướng dẫn người dân phát đường băng cản lửa.

Anh Lò Văn Phương, Cán bộ kiểm lâm địa bàn xã Mường Mô chia sẻ: “Là một cán bộ kiểm lâm cắm chân tại địa bàn xã Mường Mô chúng tôi cũng đã thường xuyên nắm bắt địa bàn cơ sở, thường xuyên kiểm tra các diện tích rừng được giao phục trách đặc biệt là các vị trí dễ xảy ra cháy. Đồng thời hàng năm chúng tôi cũng đều xây dựng kế hoạch cụ thể để thực hiện công tác bảo vệ rừng...”

Là địa phương về đích chương trình xây dựng NTM từ 2016, tuy nhiên do địa hình tự nhiên phức tạp, nhiều bản có điều kiện kinh tế khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo còn cao đời sống phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp, chính vì vậy vấn đề bảo vệ rừng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng bộ, chính quyền xã Mường Mô hết sức coi trọng. Bởi không những giữ rừng là giữ được nguồn nước đầu nguồn mà giữ rừng còn giúp nhân dân nâng cao thu nhập thông qua tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng. Bên cạnh sự chỉ đạo quyết liệt của chính quyền xã, sự chung tay đồng lòng của nhân dân thì việc huy động các tổ chức đoàn thể cùng vào cuộc cũng là một yếu tố cực kỳ quan trọng. Những chị em phụ nữ tại các bản của xã bên cạnh việc chăm lo cho cuộc sống gia đình, lo việc đồng áng thì việc bảo vệ rừng cũng được mọi người hết sức quan tâm. Mỗi khi bản, xã huy động chị em đều nhiệt tình tham gia trong việc phát quang đường băng cản lửa, dập cháy khi có sự cố xảy ra.  

Bản Cang, xã Mường Mô là một trong những bản đi đầu trong công tác bảo vệ và phát triển rừng của xã Mường Mô. Nếu như trước đây khi mới chuyển lên khu tái định cư, với mảnh đất mới, chỗ ở mới, nhận thức của nhân dân về rừng còn hạn chế, việc chặt phá rừng, đốt rừng làm nương rẫy còn xảy ra nhiều. Từ khi được chính quyền từ xã, bản tuyên truyền cùng với nhà nước có các chính sách chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng ý thức của người dân trong bản đã dần được nâng lên, hiện tượng đốt, phá rừng không còn diễn ra. Người dân hiểu được phải bảo vệ rừng là bảo vệ cuộc sống của chính mình. Bên cạnh đó việc phát huy vai trò của già làng, trưởng bản trong công tác tuyên truyền vận động nhân dân cần chung tay bảo vệ rừng, từ bỏ tập quán lạc hậu cũng là một yếu tố hết sức quan trọng. Hàng tháng bản đều tổ chức họp bản kết hợp mời lãnh đạo xã, cán bộ kiểm lâm địa bàn xuống tuyên truyền cho nhân dân về lợi ích mà rừng đem lại cũng như tác hại khi xâm phạm đến rừng. Đặc biệt là trong công tác PCCCR các cán bộ bản luôn rất quan tâm, chú trọng tuyên truyền cho nhân dân dân, chỉ đạo nhân dân cần đồng lòng, chung sức khi có sự cố cháy rừng xảy ra.

Phát triển rừng đã khó, bảo vệ và giữ rừng còn khó hơn, với đặc thù là địa phương có điều kiện kinh tế khó khăn, nhận thức của nhiều tầng lớp, bộ phận nhân dân còn hạn chế chính vì vậy để làm tốt công tác này trong những năm tiếp theo Đảng bộ, chính quyền xã Mường Mô đã đề nhiều biện pháp, giải pháp phù hợp với điều kiện của địa phương. Bên cạnh công tác tuyên truyền, vận động là chủ đạo thì chính quyền xã cũng tích cực khuyến khích nhân dân góp đất đăng ký trồng rừng, trồng các loại cây ăn quả ôn đới trên các diện tích đất đồi, đất rừng còn bỏ trồng. Qua đó góp phần không nhỏ nâng cao thu nhập cho nhân dân, tăng tỷ lệ độ che phủ rừng, tạo không khí trong lành, giữ được nguồn nước đầu nguồn phục vụ sinh hoạt và sản xuất.

Việc phát triển và bảo vệ rừng ở xã Mường Mô nói riêng và huyện Nậm Nhùn nói chung không chỉ nâng cao thu nhập cho bà con nhân dân, thay đổi tập quán canh tác, nhận thức của nhân dân đối với rừng mà còn góp phần không nhỏ trong việc tăng độ che phủ rừng, bảo vệ và giữ gìn nguồn nước đầu nguồn, chống biến đổi khí hậu tạo môi trường làng bản ngày càng trong lành. Cùng với đó cũng thấy được sự thay đổi trong nhận thức của nhân dân, mọi người đã dần biết quý rừng và trân trọng những giá trị mà rừng mang lại cho cuộc sống của chính mình.

Trong những năm qua tình trạng người dân chủ quan hay cố ý đã gây ra những vụ cháy rừng trên địa bàn tỉnh ta dẫn đến bị phạt hành chính hoặc cao hơn nữa là truy tố trách nhiệm hình sự. Để người dân có những hiểu biết về pháp luật hơn chúng tôi xin gửi tới những quy định cũng như mức xử phạt của nhà nước đối với những hành vi gây hại đến rừng:

Theo Điều 17 Nghị định số 35/2019/NĐ-CP thì hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về phòng cháy và chữa cháy rừng gây cháy rừng, bị xử phạt như sau:

1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong các trường hợp sau:

a) Cây trồng chưa thành rừng hoặc rừng khoanh nuôi tái sinh chưa có trữ lượng thuộc các loại rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng có diện tích dưới 500 m2;

b) Rừng sản xuất có diện tích dưới 400 m2;

c) Rừng phòng hộ có diện tích dưới 200 m2;

d) Rừng đặc dụng có diện tích dưới 50 m2;

đ) Gây thiệt hại về lâm sản trị giá dưới 2.000.000 đồng trong trường hợp rừng bị thiệt hại không tính được bằng diện tích.

2. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các trường hợp sau:

a) Cây trồng chưa thành rừng hoặc rừng khoanh nuôi tái sinh chưa có trữ lượng thuộc các loại rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng từ 500 m2 đến dưới 1.500 m2;

b) Rừng sản xuất có diện tích từ 400 m2 đến dưới 600 m2;

c) Rừng phòng hộ có diện tích từ 200 m2 đến dưới 400 m2;

d) Rừng đặc dụng có diện tích từ 50 m2 đến dưới 100 m2;

đ) Gây thiệt hại về lâm sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 5.000.000 đồng trong trường hợp rừng bị thiệt hại không tính được bằng diện tích.

3. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các trường hợp sau:

a) Cây trồng chưa thành rừng hoặc rừng khoanh nuôi tái sinh chưa có trữ lượng thuộc các loại rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng có diện tích từ 1.500 m2 đến dưới 5.000 m2;

b) Rừng sản xuất có diện tích từ 600 m2 đến dưới 800 m2;

c) Rừng phòng hộ có diện tích từ 400 m2 đến dưới 600 m2;

d) Rừng đặc dụng có diện tích từ 100 m2 đến dưới 200 m2;

đ) Gây thiệt hại về lâm sản trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 10.000.000 đồng trong trường hợp rừng bị thiệt hại không tính được bằng diện tích.

4. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với một trong các trường hợp sau:

a) Cây trồng chưa thành rừng hoặc rừng khoanh nuôi tái sinh chưa có trữ lượng thuộc các loại rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng có diện tích từ 5.000 m2 đến dưới 10.000 m2;

b) Rừng sản xuất có diện tích từ 800 m2 đến dưới 1.000 m2;

c) Rừng phòng hộ có diện tích từ 600 m2 đến dưới 800 m2;

d) Rừng đặc dụng có diện tích từ 200 m2 đến dưới 300 m2;

đ) Gây thiệt hại về lâm sản trị giá từ 10.000.000 đồng đến dưới 25.000.000 đồng trong trường hợp rừng bị thiệt hại không tính được bằng diện tích.

5. Phạt tiền từ 25.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với một trong các trường hợp sau:

a) Cây trồng chưa thành rừng hoặc rừng khoanh nuôi tái sinh chưa có trữ lượng thuộc các loại rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng có diện tích từ 10.000 m2 đến dưới 15.000 m2;

b) Rừng sản xuất có diện tích từ 1.000 m2 đến dưới 1.500 m2;

c) Rừng phòng hộ có diện tích từ 800 m2 đến dưới 1.000 m2;

d) Rừng đặc dụng có diện tích từ 300 m2 đến dưới 500 m2;

đ) Gây thiệt hại về lâm sản trị giá từ 25.000.000 đồng đến dưới 40.000.000 đồng trong trường hợp rừng bị thiệt hại không tính được bằng diện tích.

6. Phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng đối với một trong các trường hợp sau:

a) Cây trồng chưa thành rừng hoặc rừng khoanh nuôi tái sinh chưa có trữ lượng thuộc các loại rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng có diện tích từ 15.000 m2 đến dưới 20.000 m2;

b) Rừng sản xuất có diện tích từ 1.500 m2 đến dưới 2.500 m2;

c) Rừng phòng hộ có diện tích từ 1.000 m2 đến dưới 1.500 m2;

d) Rừng đặc dụng có diện tích từ 500 m2 đến dưới 700 m2;

đ) Gây thiệt hại về lâm sản trị giá từ 40.000.000 đồng đến dưới 60.000.000 đồng trong trường hợp rừng bị thiệt hại không tính được bằng diện tích.

7. Phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng đối với một trong các trường hợp sau:

a) Cây trồng chưa thành rừng hoặc rừng khoanh nuôi tái sinh chưa có trữ lượng thuộc các loại rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng có diện tích từ 20.000 m2 đến dưới 25.000 m2;

b) Rừng sản xuất có diện tích từ 2.500 m2 đến dưới 3.500 m2;

c) Rừng phòng hộ có diện tích từ 1.500 m2 đến dưới 2.500 m2;

d) Rừng đặc dụng có diện tích từ 700 m2 đến dưới 900 m2;

đ) Gây thiệt hại về lâm sản trị giá từ 60.000.000 đồng đến dưới 80.000.000 đồng trong trường hợp rừng bị thiệt hại không tính được bằng diện tích.

8. Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với một trong các trường hợp sau:

a) Cây trồng chưa thành rừng hoặc rừng khoanh nuôi tái sinh chưa có trữ lượng thuộc các loại rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng có diện tích từ 25.000 m2 đến dưới 30.000 m2;

b) Rừng sản xuất có diện tích từ 3.500 m2 đến dưới 5.000 m2;

c) Rừng phòng hộ có diện tích từ 2.500 m2 đến dưới 3.000 m2;

d) Rừng đặc dụng có diện tích từ 900 m2 đến dưới 1.000 m2;

đ) Gây thiệt hại về lâm sản trị giá từ 80.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng trong trường hợp rừng bị thiệt hại không tính được bằng diện tích.

+ Điều 189. Tội huỷ hoại rừng

1.Người nào đốt, phá rừng trái phép hoặc có hành vi khác huỷ hoại rừng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

2.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

c) Hủy hoại diện tích rừng rất lớn;

d) Chặt phá các loại thực vật quý hiếm thuộc danh mục quy định của Chính phủ;

đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

3.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Hủy hoại diện tích rừng đặc biệt lớn;

b) Hủy hoại rừng phòng hộ, rừng đặc dụng;

c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

Bài, ảnh: Quang Thụy
image advertisement
 
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 0
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ HUYỆN NẬM NHÙN
Chịu trách nhiệm chính: Phó Chủ tịch Ủy ban nhân huyện phụ trách khối văn hóa - xã hội.
Địa chỉ: Thị trấn Nậm Nhùn - Huyện Nậm Nhùn.
Điện thoại: 02133. 910.112 - Email: namnhun@laichau.gov.vn
Ghi rõ nguồn namnhun.laichau.gov.vn khi sử dụng thông tin trên wedsite này.

Designed by VNPT

Chung nhan Tin Nhiem Mang