Tuyên truyền kỷ niệm 134 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2024)
Tuyên truyền
kỷ niệm 134 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 -
19/5/2024)
Nhằm nâng cao nhận của cán bộ, đảng viên, nhân dân các dân tộc
trong tỉnh về công lao trời biển và cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối
với sự nghiệp cách mạng Việt Nam; thể hiện sự tôn kính và lòng biết ơn vô hạn đối
với Người; khắc sâu và thực hiện có hiệu quả việc học tập và làm theo tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời
đại, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh,
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Góp phần củng cố và bồi đắp niềm tin của
Nhân dân với Đảng; cổ vũ các phong trào thi đua yêu nước, quyết tâm thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội XIV Đảng bộ tỉnh,
Nghị quyết Đại hội III Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2020 - 2025 đề ra.
Trang Thông tin điện tử huyện Nậm Nhùn trân trọng gửi tới quý
bạn đọc Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 134 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2024) dưới đây
ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
Kỷ niệm 134 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2024)
-------
I. KHÁI QUÁT THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP
CÁCH MẠNG CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
1. Thân thế và thuở thiếu thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước khi
ra đi tìm đường cứu nước
Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, lớn lên đi học lấy tên là Nguyễn Tất Thành, hoạt động
cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc) sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà
nho yêu nước, tại làng Hoàng Trù, xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay thuộc xã Kim
Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là Nguyễn
Sinh Sắc, thân mẫu là Hoàng
Thị Loan.
Từ lúc sinh ra đến 5 tuổi,
Nguyễn Sinh Cung sống trong sự chăm sóc đầy tình thương yêu của gia đình, đặc
biệt là ông bà ngoại. Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung theo gia đình vào sống ở Huế. Đầu năm 1901, sau khi thân mẫu qua đời, Người theo cha trở về Nghệ An, rồi lấy tên là Nguyễn
Tất Thành, tích cực học chữ Hán và còn theo cha đi một số nơi, học thêm nhiều
điều. Năm 1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế, thời gian đầu học trường Pháp - Việt, sau học trường
Quốc học Huế. Tháng 6/1909, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Bình Định, tháng
8/1910 vào Phan Thiết, Bình Thuận làm giáo viên trường
Dục Thanh. Tháng
02/1911, Nguyễn Tất Thành
vào Sài Gòn.
2. Quá trình hoạt động cách mạng
2.1. Giai đoạn 1911
- 1920
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước, ở một làng quê
giàu truyền thống lịch sử, văn hóa và cách mạng; chứng kiến cảnh nước
mất nhà tan, Người đã sớm hun đúc ý chí và khát vọng
cháy bỏng giành độc lập tự do cho dân, cho nước. Ngày 5/6/1911 với tên gọi mới là Văn Ba,
Người đã lên tàu Amiran Latusơ
Tơrêvin, rời bến cảng Nhà Rồng đi Mácxây (Pháp).
Từ năm 1912 -1917, Nguyễn Tất
Thành đi qua một số nước châu Phi, châu Mỹ. Giữa năm 1913,
Người đến nước Anh, tham gia nhiều
hoạt động, cuối năm 1917 Người mới trở lại nước Pháp.
Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành
tham gia Đảng Xã hội Pháp, tháng 6/1919 thay mặt Hội những
người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi bản yêu sách
gồm 08 điểm (ký tên Nguyễn Ái Quốc) tới Hội
nghị các nước đế quốc
họp ở Véc-xây (Pháp), đòi chính
phủ các nước họp Hội nghị phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền
bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc
đọc được Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa.
Tháng 12/1920, Nguyễn Ái
Quốc tham gia Đại hội Đảng Xã hội Pháp. Tại đây Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành
lập Đảng Cộng sản Pháp, trở
thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
2.2. Giai đoạn 1921 - 1930
Từ năm 1921 đến tháng 6/1923,
Nguyễn Ái Quốc tham gia nhiều hoạt động: thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, dự Đại hội lần thứ I và
lần thứ II của Đảng Cộng sản Pháp, sinh hoạt trong Câu lạc bộ Phôbua,
làm Chủ nhiệm kiêm chủ bút Báo Người cùng khổ...
Ngày
13/6/1923, Người rời nước Pháp đi Đức và đến thành phố Xanhpêtécbua (Liên Xô)
ngày 30/6/1923.
Từ tháng 7/1923 đến tháng
10/1924, Nguyễn Ái Quốc tích cực hoạt động trong phong trào cộng sản quốc tế,
bổ sung và phát triển lý luận về cách mạng thuộc địa. Người hoạt động trong
Quốc tế Nông dân; tham dự Đại hội II Quốc tế Công hội đỏ, Đại
hội Quốc tế Cộng sản Thanh niên; tiếp tục viết nhiều sách báo
tuyên truyền cách mạng, hoàn thành tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp; học tập tại trường
Đại học phương Đông; tham gia
Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản và được chỉ định là cán bộ Ban phương
Đông Quốc tế Cộng sản.
Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc
rời Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc). Tháng 6/1925, Người thành lập Hội Việt
Nam cách mạng Thanh niên, trực tiếp mở các lớp huấn luyện cán bộ, ra Báo Thanh
niên (1925), tờ báo cách mạng đầu tiên của Việt Nam nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin
về Việt Nam, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc được tập hợp và in thành tác phẩm Đường Cách
mệnh, được xuất bản vào năm 1927.
Hè năm 1927, Nguyễn Ái Quốc rời
Trung Quốc đi Liên Xô, sau đó đi Đức (tháng 11/1927)
rồi bí mật sang Pháp, đến nước Bỉ dự cuộc họp của Đại hội
đồng liên đoàn chống đế quốc (tháng 12/1927), rồi quay lại Đức, đi Thụy
Sỹ, sang Italia. Tháng 7/1928,
Nguyễn Ái Quốc tới Xiêm (Thái Lan), rồi trở lại Trung Quốc vào cuối năm 1929.
Từ ngày 06/1 đến ngày 07/2/1930
tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc), Nguyễn
Ái Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam.
2.3. Giai đoạn 1930 - 1945
Từ năm 1930 đến năm 1941, tuy hoạt động ở nước ngoài nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn chỉ đạo sát sao phong trào cách mạng trong nước. Tháng
6/1931, Người bị nhà cầm quyền Anh bắt giam ở Hồng Kông. Cuối năm 1932, Người
được trả tự do, sau đó đến Liên Xô học tại trường Quốc tế Lênin.
Tháng 10/1938, Người rời Liên Xô đến Diên An (Trung
Quốc) làm việc tại
Bộ chỉ huy Bát lộ quân, sau đó bắt liên lạc với tổ chức Đảng, chuẩn bị về
nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam.
Ngày 28/01/1941, sau hơn 30 năm xa Tổ quốc, Nguyễn
Ái Quốc trở về
nước (tại cột mốc 108 thuộc xã Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng).
Từ ngày 10 đến ngày 19/5/1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ
VIII của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tại Khuổi
Nặm (Pắc Bó, Cao Bằng). Hội nghị đã xác định đường lối đấu tranh
giải phóng dân tộc, chỉ đạo thành
lập Mặt trận Việt Minh, sáng lập Báo
Việt Nam Độc lập, tổ chức lực lượng
vũ trang giải phóng, xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Tháng 8/1942, lấy tên là Hồ Chí
Minh, Người đại diện cho Mặt trận Việt Minh và Phân hội Việt Nam thuộc Hiệp hội
Quốc tế chống xâm lược sang Trung Quốc bắt
liên lạc với Đồng minh, cùng phối hợp hành động chống phát xít trên chiến
trường Thái Bình Dương. Người bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch
bắt giam trong các nhà lao của tỉnh Quảng Tây
(Trung Quốc). Trong thời gian bị giam giữ, Người viết cuốn Nhật ký trong
tù. Tháng 9/1943, Người được thả tự do.
Tháng 9/1944, Hồ Chí Minh trở
về căn cứ Cao Bằng. Tháng 12/1944, Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt
Nam.
Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh
từ Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang).
Tại đây theo đề nghị của Người, Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân
đã họp quyết định Tổng khởi nghĩa. Đại hội Quốc dân đã bầu ra Uỷ ban giải phóng
dân tộc Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Tháng 8/1945, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân
khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
Ngày 02/9/1945 tại Quảng trường
Ba Đình, Hà Nội, Người đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
2.4. Giai đoạn 1945 - 1954
Những năm 1945 - 1946, Người cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân
dân xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, đối phó với thù trong, giặc ngoài, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua tình thế “ngàn cân treo
sợi tóc”; tổ chức Tổng tuyển cử trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua Hiến
pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội khóa I (1946) đã bầu Người làm Chủ
tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 02/3/1946, Chính phủ Liên
hiệp kháng chiến được thành lập do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Ngày 03/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh được Quốc hội giao nhiệm
vụ thành lập Chính phủ mới do Người làm Chủ tịch nước kiêm Thủ tướng
Chính phủ (từ tháng 11/1946 - đến tháng 9/1955) và kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao.
Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm
Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã giành thắng lợi vẻ
vang trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, mà đỉnh cao là Chiến
thắng Điện Biên Phủ năm 1954 lừng
lẫy năm châu, chấn động địa cầu, đưa miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2.5. Giai đoạn 1954 - 1969
Sau chiến
thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ
được ký kết. Quân Pháp rút về nước, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải
phóng. Theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, sau
2 năm sẽ tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất nước Việt Nam. Nhưng đế quốc Mỹ với ý
đồ xâm lược Việt Nam từ lâu, đã lợi dụng cơ hội, gạt Pháp ra, nhảy vào tổ chức,
chỉ huy ngụy quyền, ngụy quân tay sai, viện trợ kinh tế quân sự, biến miền Nam
thành thuộc địa kiểu mới, chia cắt lâu dài nước ta. Cả dân tộc ta lại bước vào
cuộc chiến đấu chống xâm lược mới. Trước bối cảnh đó, Trung ương Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh tiếp tục lãnh đạo nhân dân thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ
chiến lược: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam, thực hiện giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Tháng 10/1956, tại Hội nghị Trung
ương Đảng mở rộng lần thứ X (khóa
II), Chủ tịch Hồ Chí Minh được cử giữ chức Chủ tịch Đảng.
Tại Đại hội lần thứ III của
Đảng (1960), Người được bầu lại làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao
động Việt Nam. Quốc hội khóa II, khóa III bầu Người
làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề
ra đường lối đúng đắn, lãnh đạo cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước và công cuộc cải
tạo, xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc thắng lợi; đặt nền
móng và không ngừng vun đắp tình hữu nghị giữa dân tộc Việt Nam với các
dân tộc trên thế giới, giữa Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản
Việt Nam) với các Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế.
Ngày 02/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời là tổn thất vô cùng lớn
lao. Đồng bào và chiến sĩ cả nước ta
thương nhớ Người khôn xiết. Sự ra đi của Người
để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn Đảng, toàn dân tộc Việt Nam và tình
đoàn kết thân ái với nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp
cách mạng của Đảng ta, dân tộc ta, nhân dân ta và vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên thế
giới. Người đã trải qua một
cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô
cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi là tấm gương sáng
ngời cho lớp lớp thế hệ người Việt
Nam học tập và noi theo.
Tên tuổi và sự nghiệp của Chủ
tịch Hồ Chí Minh sẽ còn mãi với non sông đất nước, sống mãi trong lòng mỗi
chúng ta.
II. CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH - ANH HÙNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC,
LÃNH TỤ THIÊN TÀI CỦA ĐẢNG VÀ NHÂN DÂN, NHÀ VĂN HÓA KIỆT XUẤT CỦA VIỆT NAM, NGƯỜI
CHIẾN SĨ LỖI LẠC CỦA PHONG TRÀO CỘNG SẢN VÀ CÔNG NHÂN QUỐC TẾ
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy
biến động của đất nước. Nhiều cuộc khởi nghĩa, đấu tranh anh dũng, bất khuất
giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc đều lần lượt thất bại, phong trào
cứu nước của nhân dân ta đứng trước khủng hoảng sâu sắc về đường lối. Với khát
vọng cháy bỏng giành độc lập, tự do cho dân, cho nước, Người đã bôn ba khắp năm châu bốn biển, vừa lao động, học tập, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh
nghiệm các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, Người hiểu rõ cội nguồn những khổ đau của nhân dân lao động
là ở sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản đế quốc và hình thành nên ý thức
giai cấp rõ rệt. Người đã đến với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tiếp thu thế giới quan, phương pháp luận cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin;
bằng thiên tài trí tuệ, nhận thức đúng xu thế phát triển tất yếu của loài người và tính chất mới của thời đại mở ra
từ Cách mạng tháng Mười Nga, Người đã tìm thấy ở đó những
vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc gắn
liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam do Người
sáng lập vào năm
1930, cùng Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng, đường lối cách mạng Việt Nam đã
cơ bản được hình thành, con đường cứu nước đúng đắn của Việt Nam đã cơ bản được
xác định. Điều này không chỉ khai thông bế tắc trong đường lối giải phóng dân tộc, mà còn giải quyết đúng đắn, sáng tạo và lãnh
đạo thực hiện thắng lợi các vấn đề trọng yếu của cách mạng Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng
đầu là Lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã gắn kết thành một khối, phát
huy cao độ sức mạnh toàn dân tộc, làm nên
thắng lợi Cách mạng tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, lập
nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước
dân chủ nhân dân
đầu tiên ở Đông Nam Á. Trong
bản Tuyên ngôn độc
lập đọc ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân, đồng
bào và toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật
đã thành một nước tự do độc lập”.
Ngay sau khi giành độc lập, chính quyền cách mạng non trẻ của ta đứng
trước tình thế vô cùng khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng toàn Đảng đã sáng suốt đề ra đường lối đúng đắn, chèo lái con thuyền
cách mạng vượt qua
thác ghềnh, bảo vệ Đảng và giữ vững chính quyền cách mạng. Trên cơ sở đường lối kháng chiến “toàn
dân”, “toàn diện”, “trường kỳ”, “dựa vào sức mình là chính” phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước của toàn dân
tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân lần lượt đánh bại
mọi âm mưu, kế hoạch xâm lược của kẻ thù, đặc biệt là thắng lợi trong Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải
ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (năm 1954), chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “không có gì quý hơn độc lập, tự do”;
thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người; trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng
tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc
kết hợp với sức mạnh thời đại, quân và dân ta đã lần lượt
đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu giang sơn về một
mối, hoàn thành sự nghiệp cách mạng
giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo
vệ miền Bắc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đi theo
con đường cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra; trong bất cứ hoàn cảnh
nào, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, vận dụng phát triển, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
không ngừng nâng cao uy tín, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu để thực hiện
thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch của đất nước sau gần 35 năm đổi mới và hội
nhập quốc tế là minh chứng sinh động khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn,
sáng suốt của Đảng; khẳng định sự đúng đắn về đường lối cách mạng Việt Nam do
Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra; và chính trong quá trình vận động của cách mạng,
tư tưởng, đường lối đó ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện, trở
thành ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác.
2. Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân ta, Người là tấm gương mẫu mực về
đạo đức cách mạng, hết lòng, hết sức cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp cách mạng
của Đảng và dân tộc
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng
lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt
Nam, xây dựng nền Cộng hoà Dân chủ Việt Nam, xây dựng Mặt trận Dân tộc thống
nhất Việt Nam, tổ chức và huấn luyện các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, Người đặt nền tảng quan hệ với các dân
tộc trên thế giới. Người đã cùng Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào
điều kiện cụ thể của nước ta. Chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trở thành nền tảng tư tưởng của Đảng, soi đường cho sự nghiệp cách mạng
của Đảng và dân tộc Việt Nam giành được thắng lợi ngày càng to lớn hơn. Nước ta
từ một xứ thuộc địa phong kiến, nghèo nàn, lạc hậu đã vươn lên trở thành nước
đang phát triển, có thu nhập trung bình; văn hoá, xã hội tiếp tục phát triển,
đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân không ngừng được nâng cao; công tác xây dựng Đảng và
hệ thống chính trị từng bước hoàn thiện; khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng
cố; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng -
an ninh, độc lập, chủ quyền
được giữ vững; vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên
trường quốc tế. Đúng như đồng chí
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”.
Đất nước
phát triển, nhân dân có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc, đã chứng tỏ, tư
tưởng, sự nghiệp, đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản vô
giá, là ngọn đuốc soi đường cho dân tộc ta vững bước đi tới tương lai. Là Lãnh
tụ thiên tài của Đảng và nhân dân ta nhưng Chủ tịch Hồ Chí không bao giờ coi
mình đứng cao hơn nhân dân, không để ai sùng bái cá nhân mình, chỉ tâm niệm
suốt đời là người phục vụ trung thành và tận tụy của nhân dân, “như một người
lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra mặt trận”. Ở Người sự vĩ đại và cao cả được thể
hiện thông qua những điều hết sức đời thường và giản dị. Đó không chỉ là biểu
hiện của đạo đức, lối sống mà còn là phong cách quần chúng, trọng dân và vì
dân. Sự giản dị của Hồ Chí Minh đã trở thành một biểu tượng mang tầm giá trị
văn hóa, nhưng lại rất gần gũi với cuộc sống của nhân dân, khiến ai cũng
có thể học tập và noi theo.
Cuộc đời của Người là biểu
tượng cao đẹp về chí khí cách mạng kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng
yêu nước, yêu nhân dân tha thiết, đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư, tác phong khiêm tốn, giản dị. Người để lại cho chúng ta một tấm lòng nhân hậu, một tình cảm chan chứa yêu
thương, vì nước, vì dân, vì Đảng; một trí tuệ anh minh, mẫn tiệp; một tầm nhìn xa
rộng, sâu sắc; một mẫu mực
tuyệt vời về cách sống, cách nghĩ,
cách viết, cách nói, cách làm việc.
3. Chủ tịch Hồ Chí Minh - Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam
Sự nghiệp văn hóa lớn nhất, quan trọng
nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh
là đã tìm con đường cứu nước đúng đắn và lãnh đạo thành công sự nghiệp cách
mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân. Sự nghiệp giải phóng
dân tộc do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh
đạo đã đem lại địa vị xứng
đáng cho nền văn hóa dân tộc
Việt Nam. Không chỉ vậy, sự nghiệp
này còn có ý nghĩa to lớn đối với nền văn hóa thế giới, đã chỉ ra cho nhân dân các nước thuộc địa
con đường đứng lên đập tan xiềng xích nô lệ, giành độc lập, tự do cho đất nước mình, từ đó góp phần vào việc
xóa bỏ chế độ thuộc địa trên thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
không chỉ góp phần tạo ra một chế độ mới,
một thời đại mới mà còn tạo ra một nền văn hóa mới trong lịch sử phát triển của
dân tộc Việt Nam, góp phần to lớn vào sự phát triển chung
của văn hóa nhân
loại.
Những năm tháng hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã tiếp thu
chọn lọc truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại,
trong đó đặc biệt là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin phát triển thành những
giá trị văn hóa mới - văn hóa Hồ Chí
Minh. Tư tưởng về văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấm đậm trong đời sống
xã hội. Người luôn nhận rõ vị trí và ý nghĩa đặc biệt quan trọng
của văn hóa. Người chỉ rõ: “Văn hóa soi đường quốc dân đi”.
Cái cốt lõi trong tư tưởng văn hóa
Hồ Chí Minh là lòng yêu nước, thương dân, thương yêu con người,
hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Người đề cao lý tưởng cứu nước, cứu dân, “Tổ quốc trên hết”, “Dân tộc trên
hết”, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Với những cống hiến xuất sắc
cho dân tộc Việt Nam và cho nhân loại
tiến bộ trên thế giới, năm 1987, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên
Hợp quốc (UNESCO) ra Nghị quyết 24C/1865 nhân
kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1990) tôn vinh Người là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của
Việt Nam. Đây là vinh dự tự hào vô cùng lớn lao của Đảng và Nhân dân ta.
4. Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Người chiến sĩ lỗi lạc của phong
trào cộng sản và công nhân
quốc tế
Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu
tượng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước chân chính kết hợp nhuần nhuyễn với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Ngay từ khi
đến với chủ nghĩa Mác -
Lênin, ánh sáng chân lý của thời đại, tấm lòng
của Người luôn hướng về nhân dân các
dân tộc bị áp bức, chiến đấu không
mệt mỏi vì hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc. Người đã hết lòng, hết sức xây
dựng sự đoàn kết nhất trí giữa các Đảng Cộng sản anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mác -
Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng, không ngừng vun đắp
quan hệ gắn bó, hữu nghị
giữa các dân tộc
Đông Dương, các nước láng giềng. Người đã có những cống hiến
xuất sắc về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa dưới ánh sáng của
chủ nghĩa Mác -Lênin: Giành độc lập để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người đã tìm ra các giải pháp
đấu tranh giải phóng loài người. Đóng góp lớn nhất của Hồ Chí Minh đối với thời
đại là từ xác định đúng đắn con đường cứu nước cho dân tộc đến việc xác định
được một con đường, một hướng đi và một phương pháp để thức tỉnh hàng trăm
triệu người bị áp bức trong thuộc địa lạc hậu.
Hồ Chí Minh đã giải quyết
đúng đắn vấn đề “làm thế nào để giải quyết
các dân tộc thuộc địa”. Hồ Chí Minh đã hoạt động không mệt mỏi để gắn cách mạng
Việt Nam với cách mạng thế giới, Người đã làm sống lại những giá trị tinh hoa của dân tộc Việt Nam. Sự nghiệp cứu nước của Người đã xóa bỏ tất cả những tủi nhục nô lệ đè nặng trên vai dân tộc ta. Trong
gần một thế kỷ, lần đầu tiên trong lịch sử, dưới sự tổ chức và rèn luyện
của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân
dân ta xóa bỏ được mọi hình thức áp bức, bóc lột và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Những thắng
lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Lãnh tụ Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam đã cổ vũ các dân tộc bị áp bức, bóc lột trên toàn thế
giới đấu tranh vì mục tiêu cao cả: Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ của con người.
Chính vì vậy mà không chỉ nhân dân Việt Nam kính yêu Chủ tịch Hồ Chí Minh mà nhân dân, bạn bè thế giới cũng rất yêu quý Người, dành cho Người những tình cảm trân trọng và tốt đẹp
nhất. Bạn bè năm châu khâm phục và coi Hồ Chí Minh là “Lãnh tụ của thế giới thứ ba”, “...cuộc chiến đấu của Người sẽ là kim chỉ nam cho tất cả các dân tộc đang
đấu tranh, cho thanh niên và cho các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới” (Bumêđiên, nguyên Chủ tịch Hội đồng Cách mạng, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa dân
chủ và nhân dân Angiêri); “Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là nguồn cổ vũ đối
với tất cả chiến sỹ đấu tranh cho tự do” (trích điện văn của Chủ tịch Ban
lãnh đạo phong trào nhân dân giải phóng Ănggôla Agôxtinhônêtô);“Tên tuổi của Đồng chí Hồ Chí Minh sẽ mãi mãi gắn
bó với những hành động cao
cả nhất và những ước mơ cao quý nhất của nhân loại” (trích điện văn của Ủy ban
toàn quốc Đảng Cộng sản Mỹ).
III. HỌC
TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
1. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta và các thế hệ mai sau một gia tài đồ sộ, một
di sản hết sức quý báu, đó là tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh.
1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu văn hoá nhân loại.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm: Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân và vì dân; về chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân,...
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá, mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho cuộc đấu tranh vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam.
1.2. Đạo đức Hồ Chí Minh
- Tấm gương đạo đức phong cách Hồ Chí Minh vô cùng trong sáng và cao thượng, kết tinh của tinh hoa văn hóa Việt Nam.
- Những nội dung chủ yếu của đạo đức Hồ Chí Minh:
Một là, trung với nước, hiếu với dân:
Trung với nước, hiếu
với dân là điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Trung
với nước là trung thành
vô hạn với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, đấu tranh
giành độc lập dân tộc và làm cho đất nước “sánh vai với các cường quốc năm châu”. Hiếu với dân phải gắn bó với dân, gần dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc; phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, quan tâm cải thiện
dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu rõ trách nhiệm và quyền lợi của người làm chủ đất nước.
Hai là, yêu thương con người, sống có nghĩa, có
tình: Yêu
thương con người là phải quan tâm đến những người lao động bình thường, chiếm
số đông trong xã hội. Yêu thương con người là phải làm mọi việc để vì con
người, vì mục tiêu “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, dám hy
sinh, dám dấn thân để đấu tranh giải phóng con người; yêu thương con người là
phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc, với người thì độ
lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với người lầm đường, lạc lối, mắc
sai lầm, khuyết điểm; yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến
bộ, sống cao đẹp hơn; yêu thương con người phải thực hiện tự phê bình, phê bình
chân thành, giúp nhau sửa chữa khuyết điểm.
Ba là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư: Cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần có của con người, mang một lẽ tự nhiên, như
trời có bốn mùa, đất có bốn phương và Người giải thích cặn kẽ, cụ thể nội dung
từng khái niệm.
+ Cần là lao động cần cù, siêng năng; lao động có kế hoạch, sáng
tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng,
không ỷ lại, không dựa dẫm.
+ Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm
tiền của dân, của nước, của bản thân mình, tiết kiệm
từ cái to đến cái nhỏ; không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi,
không phô trương, hình thức...
+ Liêm là luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân, không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước,
của Nhân dân; không tham địa vị,
không tham tiền tài, không tham sung sướng, không tham tâng bốc mình...
+ Chính là không tà, là thẳng thắn, đúng đắn. Đối với mình không
tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa
lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết.
+ Chí công vô tư là khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến
mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ.
+ Cần, kiệm, liêm,
chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công
vô tư. Ngược lại, đã chí công vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được
cần, kiệm, liêm, chính.
Bốn là, có tinh thần quốc tế
trong sáng: Đoàn kết
quốc tế trong sáng trước hết là đoàn kết với nhân dân lao động các nước vì mục tiêu chung: Đấu tranh
giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột; đó là tình đoàn kết quốc
tế giữa những người vô sản toàn thế giới vì một mục tiêu chung “bốn phương
vô sản đều là anh em”. Sau đó, đoàn kết quốc tế trong sáng còn là đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
Nguyên tắc xây dựng và thực
hành đạo đức, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh được
thể hiện ở ba điểm sau: Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức; xây đi
đôi với chống; phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
1.3. Phong cách Hồ Chí Minh
- Từ Đại hội V (1981) trở về trước, Đảng ta thường dùng khái niệm “tác phong” để nói về “tác phong Hồ Chủ tịch”.
Từ Đại hội VI (1986), hai chữ “tác phong” được thay bằng khái niệm “phong cách” trong cụm từ “tư tưởng,
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” để có thể nói về những đặc trưng đa dạng,
phong phú khác trong hoạt động của Người.
Phong cách Hồ Chí Minh là nói đến những đặc trưng giá trị, mang đậm
dấu ấn Hồ Chí Minh, gắn liền với
nhân cách trí tuệ lỗi lạc, đạo đức trong sáng của Hồ Chí Minh, với tư cách là
một vĩ nhân, một nhà văn hóa kiệt xuất. Đó là một phong
cách vừa dân tộc vừa hiện đại, vừa khoa học vừa cách
mạng, vừa cao cả vừa thiết thực. Phong cách Hồ Chí Minh được thể hiện trong mọi
lĩnh vực sống và hoạt động của Người, tạo thành một chỉnh thể nhất quán, có giá
trị khoa học, đạo đức và thẩm mỹ:
- Những nội dung chủ yếu của phong cách Hồ Chí Minh
+ Phong cách tư duy: Phong cách tư duy khoa học, cách mạng
và hiện đại; phong cách tư duy
độc lập, tự chủ, sáng tạo. Đó là phong cách tư duy không giáo điều, dập khuôn,
không vay mượn dập khuôn của người khác, hết
sức tránh lối cũ, đường mòn, tự mình tìm tòi, suy nghĩ, truy đến tận cùng
bản chất của sự vật, hiện tượng để tìm ra chân lý, phù hợp với nhu cầu và điều
kiện thực tiễn; phong cách tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình.
+ Phong cách làm việc: Khoa học, có
kế hoạch, đổi mới, sáng tạo, không chấp
nhận lối cũ, bảo thủ.
+ Phong cách lãnh đạo: Tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân
chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; luôn nêu gương.
+ Phong cách diễn đạt: Cách nói, cách viết giản dị, cụ thể, thiết thực. Diễn đạt ngắn gọn, cô đọng, hàm súc, trong sáng và sinh động, có
lượng thông tin cao, sinh động, gần gũi với cách nghĩ của quần chúng, gắn với
những hình ảnh cụ thể, luôn luôn linh hoạt, nhất quán mà đa dạng.
+ Phong cách ứng xử: Khiêm tốn,
nhã nhặn, lịch thiệp, không bao giờ đặt mình cao hơn người khác, mà trái lại
luôn hòa nhã, quan tâm chu đáo đến những người chung quanh,
chân tình, nồng hậu, tự nhiên, linh hoạt, chủ động, vui vẻ, hòa nhã, xóa nhòa mọi
khoảng cách.
+ Phong cách sinh hoạt: Phong cách sống cần kiệm, liêm chính, tôn trọng
quy luật tự nhiên, gắn bó với thiên nhiên.
2. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
2.1. Tuyệt đối trung thành với
lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh
Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại,
nắm vững quy luật khách quan,
xu thế thời đại và thực tiễn đất nước để đề ra Cương
lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân.
Hiện nay, trong bối cảnh toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ cùng với sự phát triển bùng nổ của Internet, các
mạng xã hội toàn cầu và những vấn đề nảy sinh từ mặt trái của kinh tế thị trường;
các thế lực thù địch, phản động có những chiêu thức, thủ
đoạn mới chống phá Đảng, Nhà nước và công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Bên cạnh những kết
quả đạt được, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,
đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch cũng còn những hạn
chế, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Trong bối
cảnh đó, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng đầy đủ hơn,
sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
2.2. Tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
Xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh là nhân tố quyết định tạo nên những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới ở Việt Nam
hơn 3 thập niên qua. Thông qua xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, Đảng
ta trưởng thành hơn trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, ngày càng nâng cao vai trò, vị thế cầm quyền và năng lực lãnh đạo, tăng cường
mối quan hệ gắn
bó mật thiết với nhân dân, khơi dậy tiềm năng sáng tạo, phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng và
quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI
và khóa XII về xây dựng Đảng đã khẳng định, phải tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng với tinh thần tích cực và kiên quyết, mạnh mẽ, nhằm tạo ra
một bước chuyển biến rõ rệt hơn nữa trên các mặt, ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, củng cố sự kiên định về mục tiêu, lý tưởng cách mạng; tăng
cường sự thống nhất ý chí và hành động; củng cố tổ chức chặt chẽ; tăng cường
mối liên hệ mật thiết với nhân dân; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, coi đây là vấn đề
sống còn của Đảng ta, chế độ ta.
Phương hướng chung của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
là phải tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ vững và tăng cường bản chất
cách mạng và tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững
mạnh cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào dân
để xây dựng Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm
quyền của Đảng.
2.3. Tiếp tục phát huy ý chí,
khát vọng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy
mạnh đổi mới sáng tạo, phát triển nhanh và bền vững đất nước
Sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc vẫn luôn là một trong những nguồn lực quan trọng nhất, mạnh mẽ
nhất để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi sự nghiệp
đổi mới, phát triển đất nước.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu
phát triển đất nước nhanh, bền vững, cấp ủy
đảng, chính quyền, đoàn
thể các cấp cần phải quan tâm, chăm
lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tăng cường giáo
dục, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, khát vọng phát triển và sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc; bồi dưỡng sức dân; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thu hút
trọng dụng nhân tài; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học - công nghệ; xây dựng và phát
huy giá trị, sức mạnh con người Việt Nam; quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội;
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;
tăng cường quốc phòng, an ninh bảo đảm vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2.4. Thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày
18/5/2021 của Bộ Chính trị tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW “đẩy mạnh học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh”
(theo Kế hoạch
số 222-KH/TU, ngày 18/12/2023 của Ban Thường
vụ Tỉnh ủy); đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, quyết tâm
thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và đại hội đảng bộ các cấp,
nhiệm kỳ 2020-2025
Các cấp ủy, tổ chức đảng, các
cơ quan tư tưởng - văn hóa tỉnh tăng cường lãnh đạo, đẩy mạnh các hoạt động tuyên
truyền về tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh và việc học tập và làm theo Bác, coi đó là công việc
quan trọng cần triển khai thường xuyên; không ngừng nâng cao nhận thức cho toàn
thể cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và Nhân dân các dân tộc trong tỉnh về ý nghĩa, tác dụng của phong trào thi đua yêu nước; tập
trung giới thiệu những giá trị cốt lõi về tư tưởng, đạo đức, phong cách của
Người; vận dụng sáng tạo và thực hiện có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về thi
đua yêu nước; kịp thời lựa chọn, phát hiện, bồi dưỡng các mô hình điểm, cách
làm hay, sáng tạo, hiệu quả, thiết thực trong các phong trào thi đua ở địa bàn
cơ sở; các gương “người tốt, việc tốt”, nhân tố mới trong các phong trào thi
đua yêu nước, đặc biệt là sự gương
mẫu của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị để tuyên truyền
động viên, cổ vũ và nhân rộng, tạo sự lan tỏa trong cộng đồng... Quyết tâm thực
hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020 - 2025./.
BAN TUYÊN
GIÁO TỈNH ỦY