Nét đẹp trong trang phục của đồng bào dân tộc Cống bản Tắng Ngá, xã Nậm Chà, huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu
Nằm yên bình bên dòng suối Nậm Ngà,
bản Tang Ngá, xã Nậm Chà, huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu có 101 hộ dân, gồm 529 nhân khẩu chiếm
16,18% dân số toàn xã và chiếm 1,83% dân số toàn huyện. Với sự tiếp sức của các cấp,
ngành, người Cống nơi đây đang nỗ lực giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc mình,
trong đó có trang phục truyền thống.
Người Cống không trồng bông dệt vải mà chỉ mua vải nhuộm chàm của dân
tộc Thái, Lào về để khâu, may và trang trí các hoa văn mang nét đặc trưng văn
hóa của dân tộc mình… Trang phục của phụ nữ dân tộc Cống gồm: Áo, váy, khăn,
thắt lưng. Áo nữ thường may bó sát người, ống tay dài, hai bên tà áo được nẹp
các dải vải dệt màu đỏ, đen, xanh, trắng...
1. Trang phục nữ
1.1.
Phục sức trên đầu và trang sức:
1.1.1. Phục sức trên đầu
a. Búi tóc và trâm cài:
Phục sức trên đầu của
phụ nữ dân tộc Cống ngoài giá trị làm đẹp còn để phân biệt phụ nữ đã có chồng
và chưa có chồng. Điều này trước hết thể hiện qua mái tóc với tục búi tóc. Phụ
nữ chưa có chồng thì búi tóc ở phía sau; phụ nữ đã có chồng búi tóc trên đỉnh
đầu. Búi tóc được búi rất cao (Ảnh 1) và được cài bằng hai cái trâm đối
nhau. Hai cái trâm này ngoài tác dụng giữ tóc còn là đồ trang sức tô điểm đầu
tóc cho phụ nữ Cống. Trâm được làm từ xương động vật, đầu trâm có đính những
đồng bạc (Ảnh 2).
Ngoài cách phục sức kể
trên, xưa kia, để trang trí cho mái tóc, phụ nữ người Cống còn sử dụng hai loại
"trông pha". Loại thứ nhất
là một chuỗi hạt cườm dài, mỗi đầu sâu 6 - 7 rùi xương lớn nhỏ khác nhau được
lấy từ xương động vật và được khắc những hoa văn hình quả trám, xương cá đối
xứng và các hình chéo đơn. Loại này được đính vào đầu cái trâm cài tóc như mô
tả ở trên. Loại thứ hai có tác dụng giữ tóc chặt hơn và cũng là trang sức trên
đầu của phụ nữ dân tộc Cống. Đó là một loại dây mây uốn tròn vừa với búi tóc.
Sợi mây này được vuốt đẹp, nhuộm màu đỏ, xung quanh có đính những vỏ ốc biển bổ
đôi theo chiều dọc cách đều nhau. Tuy nhiên, hiện nay, hai loại "trông
pha" này không còn được sử dụng nữa.
b. Khăn đội đầu truyền
thống: có 02 loại
- Khăn đội đầu cổ xưa:
được người Cống gọi là tàng cà tù păn na
la. Khăn này được làm từ một dải vải màu đen dài khoảng 180 - 250 cm, khổ
rộng trung bình 35 cm, chất liệu vải làm khăn chủ yếu là vải bông tự dệt và
nhuộm chàm mua của người Thái. Hai đầu khăn được thêu những đường thẳng bằng
chỉ màu xanh, đỏ, vàng và gắn 8 bông len đỏ cách đều nhau. Phần trang trí hai
đầu khăn đồng bào gọi là tư xư nu nê.
Hiện nay, phụ nữ người Cống không sử dụng loại khăn này nữa.
- Khăn đội đầu ngày nay
của phụ nữ người Cống là chiếc khăn "piêu" giống của người Thái Đen (Ảnh 3).
Khăn này rộng khoảng 25
- 28 cm, dệt bằng vải bông nhuộm chàm. Khi dệt, người ta luồn 4 đường kẻ kép
(mỗi đường kẻ có 2 đường viền) bằng chỉ xanh, đỏ, vàng dọc theo chiều dài chiếc
khăn và khi dệt theo chiều ngang được khoảng 15 - 17 cm thì người ta lại dệt
tiếp hai đường kẻ kép ngang. Khi các kẻ ngang gặp các đường kẻ dọc này thì
người ta bỏ thõng các đường kẻ đó không dệt nữa và lại dệt nối bằng chỉ đen
chàm. Khi dệt xong, người ta cắt phần thõng của các đường kẻ tạo thành hoa văn
đặc trưng của khăn (Ảnh 4).
Hoa văn mặt khăn ở hai
đầu gồm khối trám lồng, xương cá đối xứng, hình núi cách điệu và các đường chỉ
màu thêu tiếp tuyến tạo thành các đường riềm đơn
(Ảnh 5, 6, 7).
Hai đầu khăn được ghép
vải các màu vàng, đỏ, xanh. Góc và xen kẽ đường ngang, dọc đính các quả sợi
nhỏ. Các quả sợi này được làm bằng chỉ tơ tằm các màu sặc sỡ (Ảnh 8, 9). Phần trang trí hai đầu khăn đồng bào gọi là tư xư nu nê.
- Cách đội khăn: Khi
đội khăn, người ta áp một đầu dài lên búi tóc (áp trên đỉnh đầu đối với phụ nữ
có chồng (Ảnh 10) hoặc một bên mái đầu đối với con
gái chưa chồng); sau đó trùm khăn qua đỉnh đầu, cuốn quanh đầu vài vòng rồi
buông đầu khăn ra sau lưng sao cho đầu ngắn nằm ở bên dưới phía trong, đầu dài
ở bên trên phía ngoài (Ảnh 11).
1.1.2. Trang sức:
Đồ trang sức của dân
tộc Cống ngoài những phục sức trên đầu còn có vòng cổ và vòng tay. Những trang
sức này người Cống không tự làm được mà phải mua của các dân tộc khác (ngày nay
thường được đồng bào mua ở chợ về dùng). Tuy nhiên, chúng cũng được xem là những
vật không thể thiếu trong trang phục người phụ nữ Cống. Tùy thuộc từng lứa tuổi
mà người ta sẽ đeo các kích cỡ cho phụ hợp. Người con gái Cống thường được bố
mẹ để tặng cho vòng cổ, vòng tay khi đi nhà chồng.
- Vòng cổ là loại trang
sức dùng cho cả phụ nữ và nam giới. Đó là loại vòng có 2 đầu chim mỏ dài được
trạm khắc hoa văn ở một mặt (Ảnh 12). Đó cũng là mối mở của vòng để
căng ra khi đeo (Ảnh 13).
Khi đeo xong, mối mở
này được quay ra phía trước để lộ mặt vòng là 2 đầu chim mỏ dài. Vòng được cả nam
giới và phụ nữ người Cống sử dụng. Ngày nay, cùng với vòng bạc, phụ nữ người
Cống còn thường đeo cả vòng vàng (Ảnh 14,
15).
- Vòng tay: ngày nay
chủ yếu được người Cống mua ở chợ những chiếc vòng bằng các loại kim loại khác
nhau như bạc, nhôm, đồng để sử dụng. Nhưng trong cộng đồng người Cống hiện còn
bảo lưu được một số vòng tay bạc trước đây được người Cống mua khi còn ở bên
Lào. Chiếc vòng tay này được đúc rỗng, có độ rộng bản là 2cm, phía trong lòng
dẹt độ rộng 1,5cm. Hoa văn trên chiếc vòng rất đa dạng với những hình kẻ sọc,
hình tháp, hình hoa lá, hình tia mặt trời mọc... nhưng không liên quan đến tôn
giáo. Chiếc vòng được chia làm 4 phần mỗi một phần được phân các bởi một dải
hoa văn gạch ngang có 2 đường viền và hai vạch chỉ kèm chấm nhỏ ly ty như dây
truyền. Mỗi một phần lại có mô tuýp hoa văn khác nhau (Ảnh 16).
1.2.
Áo truyền thống: có 02 loại
1.2.1. Loại áo truyền thống mặc phổ biến cách nay 70 - 80
năm (hiện nay
không còn ai sử dụng nữa):
Loại áo này được người
Cống gọi là sà là á kha tằng cà, may
bằng vải trắng tự dệt (màu trắng của sợi bông). Áo may kiểu 3 thân, 2 thân
trước, 1 thân sau. Áo ngắn, tay áo dài, mở ngực, cổ áo liền với nẹp ngực, áo
không xẻ tà.
Cổ áo là một dải vải
đen rộng 2 cm kéo dài từ vạt áo bên phải chạy vòng qua cổ sang hết vạt áo bên
trái. Dọc theo chiều dài của nẹp áo có đính 5 đôi dây bằng sợi bông xe lại hình
vặn thừng để làm dây buộc (khuy áo).
Tay áo dài khoảng 45 -
48 cm, phần nách rộng 20 - 22 cm, cửa tay áo rộng 9 - 10 cm. Phần nối giữa tay
áo và thân áo (giáp nách) gần như một đoạn thẳng không khoét nách như áo các
dân tộc khác. Với đặc điểm này, khi dang rộng hai cánh tay sẽ tạo nên một góc
tương đối vuông giữa thân áo và tay áo.
1.2.2. Loại áo truyền thống xuất hiện cách nay 50 - 60 năm (chỉ được phụ nữ Cống ngày nay mặc
trong các dịp lễ trọng của gia đình và cộng đồng; trong lao động và sinh hoạt
hàng ngày, phụ nữ Cống ngày nay chủ yếu mặc áo sơ mi):
Loại áo này á kha cù xư cù nế nhìn hình thức kiểu
dáng vẫn giống kiểu áo cổ xưa. Đặc điểm nổi bật của nó so với áo sà là á kha tằng cà là thân áo may bằng
vải đen, tay áo khoang do nhiều vòng vải khác màu như vàng, trắng, đỏ, đen nối
với nhau tạo nên. Áo dùng cúc bướm bằng kim loại (bạc, nhôm) để cài, cổ áo tròn
(Ảnh 17).
Thân áo may bằng vải
trắng hoặc đen gồm 3 thân xẻ ngực, hai thân trước nhỏ, nối với thân sau ở hai
cạnh sườn. Đường nối này được viền bằng hai dải vải khác màu, có thể dùng màu
trắng kết hợp với màu vàng hoặc màu trắng với màu đỏ hay màu trắng với màu xanh.
Đường viền này kéo dài từ hai nách xuống hai bên gấu và chạy vòng quanh gấu áo
để trang trí (Ảnh 18).
Cổ áo là loại cổ tròn,
do hai dải vải khác màu kết hợp với nhau viền quanh cổ áo. Hai nẹp áo cũng được
đáp bằng một dải vải khác màu nhưng nó không cùng dải vải với cổ áo (Ảnh 19). Hai bên áo đính hai hàng cúc bướm (phê thồ) đối diện nhau
gồm 6 đôi - 12 cái (Ảnh 20).
Tay áo có chiều dài
khoảng 42 - 48 cm, tay áo phía giáp nách rộng và đo cắt gần như theo một đường
thẳng và nối với đoạn thân giáp bả vai cũng là một đường thẳng (không khoét
nách như áo của nhiều dân tộc khác). Chính đặc điểm này đã làm cho áo khi dang
hai cánh tay ra sẽ tạo nên một góc tương đối vuông với thân áo. Tay áo do 8 - 9
khoanh vải khác màu nối với nhau tạo thành, vải làm tay áo chủ yếu là những
khoanh vải vàng - trắng - đỏ - đen xen kẽ nhau tạo sự tương phản rất lớn (Ảnh 21).
Cửa tay áo thường là
khoanh vải màu được thu nhỏ rộng 9 - 10 cm; phía trong nẹp bằng vải trắng tự
dệt rộng 3 - 4 cm để tay áo thẳng và bền
(Ảnh 22).
Trong sinh hoạt hàng
ngày, dù làm bất cứ việc gì, với những động tác thuần thục mềm dẻo của đôi tay
đã tạo vẻ đẹp riêng cho người phụ nữ, hai cánh tay khoang hình đốt luôn nổi bật
trên thân áo màu đen (Ảnh 23).
1.3.
Váy truyền thống:
có 02 loại
1.3.1. Loại váy truyền thống mặc phổ biến cách nay 70 - 80
năm (hiện nay
không còn ai sử dụng nữa):
a. Váy hoa:
Loại váy này được phụ
nữ Cống mặc phổ biến khi di cư sang Bắc Lào đã mua vải của người Lào về may để
mặc. Khi đó, váy này được dệt hoàn toàn bằng sợi tơ tằm nhuộm cánh kiến. Ngày
nay được phụ nữ người Cống dệt bằng vải bông và nhuộm màu bằng các loại thuốc
nhuộm bán ở chợ huyện nhưng vẫn giữ dáng nét và hoa văn theo lối cổ (Ảnh 24).
Hoa văn trang trí trên
váy theo hình dọc gồm các mảng màu đỏ, đen to xen kẽ với các mảng nhỏ (Ảnh 25).
Trong các mảng tảng trí
to có các hình trám lồng và hình con nhện cách điệu (Ảnh 26).
Trong các mảng nhỏ
trang trí nổi các hình dấu móc (Ảnh 27).
Váy may theo kiểu hình
ống, trên dưới bằng nhau, dài khoảng 95 - 100 cm, rộng 60 - 65 cm. Cạp váy (tăng sô sải) được làm bằng vải khác màu
nối liền với thân váy dệt hoa văn phía trên. Gấu váy cũng được đáp một dải vải
khác màu (có thể cùng màu với vải cạp váy). Ngày nay, váy này chỉ được phụ nữ
Cống ngày nay mặc trong các dịp lễ trọng của gia đình và cộng đồng.
b. Váy đen:
Váy này vốn trước kia
được may bằng vải chàm đen, cạp váy đáp vải khác màu. Vải may chủ yếu mua của
người Thái. Váy hình ống, kích thước trên dưới tương đối bằng nhau. Kích thước
váy tùy theo khổ hình người mặc (Ảnh 28).
Cạp váy làm bằng vải
khác màu. Độ rộng của cạp từ 5 - 7 cm và được nối với thân váy bằng vải đen.
Thân váy do hai khổ vải
nối với nhau theo chiều dọc tạo thành. Thân váy hoàn toàn bằng vải đen không
thêu vẽ hoa văn.
Gấu váy là loại gấu nhỏ
1 - 1,5 cm do gấp mép của thân váy vào bên trong ống váy tạo nên.
Hiện nay, phụ nữ Cống
không sử dụng loại váy bằng vải tự dệt nữa mà chuyển sang dùng vải dệt công nghiệp
như vải phin, láng, lụa màu đen để may váy.
Khi mặc váy, người ta
gấp váy về phía trước rồi giắt cạp váy vào trong
(Ảnh 29, 30, 31).
1.4.
Yếm và thắt lưng:
1.4.1. Yếm:
Yếm của phụ nữ dân tộc
Cống được mặc bên ngoài áo, vắt chéo qua ngực. Yếm được may rất kỳ công. Yếm
dài và nhỏ. Đầu yếm có dây để đeo qua cổ và nách. Yếm được nối bởi 6 - 7 mảnh
vải các màu và được trang trí những hạt kim loại màu trắng và những đồng bạc để
trang trí (Ảnh 32).
1.4.2. Thắt lưng:
Đi liền với váy của phụ
nữ dân tộc Cống là chiếc thắt lưng. Thắt lưng của phụ nữ Cống là 2 miếng vải
được khâu ốp vào nhau dài khoảng 2 m, rộng khoảng 10 cm (Ảnh 33).
Nhìn một cách tổng thể,
trang phục phụ nữ Cống vừa có những nét chung với các dân tộc cùng nhóm ngôn
ngữ Tạng - Miến cận cư (Hà Nhì, La Hủ) nhưng lại cũng có những nét tương đồng
với người Thái; đồng thời có những nét riêng của tộc người (Ảnh 34).
2. Trang phục nam giới:
Cũng giống như nam giới
nhiều dân tộc khác cư trú ở các tỉnh miền núi phía bắc nước ta, trang phục thường
ngày của nam giới người Cống có áo, quần may bằng vải chàm đen. Quần dài may
kiểu dáng chân què, cạp lá tọa, đũng và ống quần rộng nên khi lao động hay leo
núi rất dễ dàng. Quần không có dải rút, khi mặc vấn cạp chặt vào người và giắt
mối vào trong bụng.
Áo dài tay may kiểu áo
tứ thân xẻ ngực, cổ tròn đứng, hai vạt áo bằng nhau và có hai túi tương xứng,
các hàng cúc và khuyết đều tết bằng vải, hai ống tay áo may thẳng và rộng, được
can ở gần khuỷu tay.
Trong những dịp cưới
xin, lễ hội họ mặc áo dài may bằng vải chàm đen hoặc thân áo màu đen, hai tay
áo màu xanh. Áo dài may kiểu tứ thân, cổ tròn đứng cài khuy bên nách phải, khuy
áo bằng vải, cúc đồng. Khi mặc áo dài quá đầu gối (Ảnh 35).
Trên đầu quấn khăn dài
màu đen theo kiểu chữ nhân ở trước trán (Ảnh
36).